Vốn nổi tiếng bởi sự tinh tế và đa dạng, ẩm thực Nhật luôn để lại sự quyến luyến trong lòng các thực khách. Vì thế nếu đến xứ sở hoa Anh Đào mà không trải nghiệm những nét đặc trưng “độc lạ” trong văn hóa ẩm thực Nhật Bản sẽ là một thiếu sót lớn.
Được đánh giá là một trong những đất nước có nền ẩm thực phong phú, đặc sắc, Nhật Bản sở hữu cho mình rất nhiều món ngon, hạ gục thực khách kể cả những vị khách khó tính ngay từ lần đầu nếm thử.
Ẩm thực Nhật Bản còn được gọi là Washoku, cũng thú vị như văn hóa và truyền thống của nước này. Đến xứ sở hoa anh đào, thưởng thức món ăn tại đây, bạn sẽ cảm nhận được hương vị các món ăn Nhật thường thanh tao, nhẹ nhàng và phù hợp với thiên nhiên từng mùa.
Trong tiếng Nhật, từ washoku (和食)được dùng để phân biệt các món ăn Nhật với các món ăn có ảnh hưởng từ nước ngoài – gọi là yoshoku. Triết lý của washoku bao gồm 5 nguyên tắc: 5 màu, 5 vị, 5 phương pháp nấu, 5 giác quan, 5 quy tắc.
* 5 màu sắc (go shiki): để đảm bảo sự cân bằng dinh dưỡng, mỗi bữa ăn cần có đủ 5 màu sắc” trắng, đỏ, vàng, xanh lục và đen (bao gồm những màu sẫm như màu nâu, màu tím).
Đồ ăn Nhật chứa ít calories nhưng rất nhiều dinh dưỡng. Các món ăn thường gồm đậu nành, nước dùng nấu từ cá, rau và các phụ gia theo mùa. Do vậy, ẩm thực Nhật Bản không chỉ ngon miệng mà còn rất tốt cho sức khỏe.
* 5 vị (go mi): một bữa ăn cần có sự kết hợp hài hòa và cân bằng các vị mặn, chua, ngọt, đắng, và umami để kích thích vị giác và cảm giác ngon miệng. (Umami là cảm giác thứ năm về hương vị mà vị giác nhận biết được. có thể hiểu nôm na đó là cảm giác ngon miệng).
Ẩm thực Nhật Bản độc đáo ở chỗ nó là sự pha trộn của một số nền văn hóa. Ramen có nguồn gốc từ Trung Quốc, sau đó người Nhật sáng tạo và phát triển kiểu ramen của riêng mình. Không chỉ ramen, nhiều món ăn khác của Nhật cũng là sự giao thoa giữa 2 nền văn hóa đông và tây.
* 5 phương pháp nấu ăn (go hoo): những người nấu ăn được khuyến khích sử dụng các phương pháp nấu ăn khác nhau để chế biến món ăn, bao gồm: hầm, nướng, hấp, rán, luộc, …
Đồ ăn Nhật thường có rất nhiều nước dùng và đồ nêm làm từ cá. Súp miso, các loại rau luộc hay mì đều có gia vị cá, khiến món ăn ngon hơn.
* 5 giác quan (go kan): món ăn cần kích thích không chỉ ở vị giác, mà còn cả ở khứu giác, thị giác, thính giác và xúc giác. Trong đo việc trình bày món ăn trên đĩa sao cho thật hài hoà là phần cực kì quan trọng của bữa ăn và người Nhật có một câu nói nổi tiếng là “ăn bằng mắt”.
Nhật Bản là một nước nhỏ, nhưng mỗi vùng lại có những biến thể và khẩu vị khác nhau về ẩm thực. Ví dụ tiêu biểu là ramen được nấu rất khác nhau ở các vùng như Hokkaido, Kitakata, Hakata…
* 5 quy tắc (go kan mon): đây có thể gọi là những luật liên quan đến việc thưởng thức món ăn, có bắt nguồn từ đạo Phật của Nhật. Một, chugns ta cần phải kính trọng và biết ơn những công sức của người đã nuôi trồng thực phẩm và chuẩn bị ra món ăn đó. Hai, chúng ta phải làm những việc tốt xứng đáng với việc được hưởng những món ăn đó. Ba, chúng ta phải ngồi vào bàn ăn với một tâm thái bình an. Bốn, chúng ta nên thưởng thức món ăn để nuôi dưỡng tinh thần bên cạnh việc nuỗi dưỡng cơ thể. Năm, chúng ta cần nỗ lực để duy trì trạng thái tinh thần vui vẻ.
Cũng như đồ ăn ở các nước khác, đồ ăn Nhật có lịch sử và văn hóa riêng của nó. Sushi, tempura, mì soba bắt đầu có từ thời kỳ Edo. Nghệ thuật ẩm thực kaiseki và shojin có lẽ còn lâu đời hơn nữa. Bạn có thể tìm hiểu về lịch sử và văn hóa từ chính những món ăn.
Một số món ăn Nhật Bản được truyền bá trong xã hội hiện nay là dạng thức được Tây hóa của những món ăn truyền thống. Tuy nhiên, rất nhiều đầu bếp và nhà hàng vẫn sử dụng những nguyên liệu, làm theo những bước chỉ dẫn như thông lệ khi chuẩn bị và tạo nên những món ăn không chỉ ngon mà còn đẹp mà khắp nơi ai ai cũng đều yêu thích.
Đến với Nhật Bản du khách không chỉ được khám phá phong cảnh thiên nhiên, tìm hiểu lễ hội mà còn học hỏi được phong tục và những nét đặc trưng “độc lạ” trong văn hóa ẩm thực Nhật Bản.